Làm thế nào để điều trị vô sinh, hiếm muộn hiệu quả?

Nhiều người cho rằng thụ tinh ống nghiệm là con đường duy nhất chữa vô sinh, hiếm muộn. Tuy nhiên GS. TS Nguyễn Viết Tiến khẳng định đó là cách hiểu không đúng.

Việt Nam thuộc nhóm nước có tỉ lệ vô sinh cao ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương với tỉ lệ 7,7% trong các cặp vợ chồng sinh đẻ, tương đương 1 triệu cặp vợ chồng được phát hiện vô sinh mỗi năm.

Tuy nhiên, GS. Nguyễn Viết Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, nguyên Giám đốc BV Phụ sản Trung ương hiện là chuyên gia của BV Phụ sản Thiện An cho biết, hầu hết người dân vẫn chưa hiểu đúng về các phương pháp điều trị vô sinh, hiếm muộn.

Gần 10 năm lấy chồng, 4 lần mang thai nhưng cả 4 lần đều thai lưu

Chị K.T (Lào Cai) lấy chồng gần 10 năm nhưng chưa được làm mẹ. Kể về quãng thời gian 10 năm với hành trình khát khao được làm mẹ của mình, chị KT cho biết: Vợ chồng chị kết hôn từ tháng 3/2012, chồng chị là bộ đội biên phòng bảo vệ biên giới ở Lào Cai. Trong 5 năm, đã 4 lần có thai nhưng cứ mang thai tới 6 hay 8 tuần thì thai bị lưu.

Vợ chồng chị đã nhiều lần đi thăm khám ở bệnh viện Trung ương và bệnh viện Quốc tế để tìm ra nguyên nhân thai bị lưu. Quá trình thăm khám, các bác sĩ xác định chị K.T có nhân xơ trong tử cung ảnh hưởng tới quá trình thụ thai. Sau đó, hai vợ chồng chị K.T đã làm thụ tinh ống nghiệm tại các bệnh viện lớn và đã thụ thai 5 lần. Nhưng sau khi thụ thai, lần nào thai cũng bị lưu từ tuần thứ 6 tới tuần thứ 8. Trong 5 năm, đã 4 lần thai lưu.

dan-tri-de-vo-sinh-hiem-muon-dieu-tri-co-hieu-qua-2-docx-1594171235612-15941793947041608823307 U xơ tử cung là nguyên nhân khiến thai chết lưu (hình minh họa)

Cuối 2019, sau khi chị làm thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai nhưng thai ở ngoài tử cung nên phải mổ xử lý. Sau khi kiểm tra, phát hiện chị K.T có khối u rất lớn trong tử cung, các bác sĩ chỉ định mổ và cắt toàn bộ tử cung. Chị thấy rất hoang mang, đau buồn vì lấy chồng 10 năm mà chưa có con, cắt toàn bộ tử cung đồng nghĩa với việc, chị sẽ không thể làm mẹ.

Tháng 5/2020, hai vợ chồng quyết định về Hà Nội tới BV Phụ sản Thiện An để khám và điều trị vô sinh. GS.TS Nguyễn Viết Tiến, Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế- Nguyên Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương – Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam hiện là Chuyên gia của Bệnh viện Phụ sản Thiện An là người trực tiếp thăm khám và điều trị cho chị K.T. Sau khi siêu âm, phát hiện khối lạc nội mạc tử cung nằm ở thành sau cơ tử cung. GS. Tiến đưa ra chỉ định phẫu thuật khối u xơ tử cung bằng phương pháp mổ mở. Theo G.S Tiến, U xơ cơ tử cung là nguyên nhân gây ra tình trạng sảy thai, thai chết lưu của chị KT.

dan-tri-de-vo-sinh-hiem-muon-dieu-tri-co-hieu-qua-2-docx-1594171235684-1594179394777159886451 Ca mổ tại Bệnh viện Phụ sản Thiện An do GS. TS Nguyễn Viết Tiến thực hiện

G.S Tiến cho biết, ca mổ cho bệnh nhân K.T đã thành công, khối u được lấy ra khỏi tử cung của chị KT nặng khoảng 100 gam. Tử cung của chị K.T trở lại hình dạng ban đầu, “đẹp” như chưa có khối u. Sáu tháng sau sẽ kiểm tra và thực hiện biện pháp sinh con trong ống nghiệm cho chị K.T. Hy vọng với kết quả mổ phẫu thuật tốt như vậy, trong lần mang thai tới, chị K.T sẽ không còn gặp phải tình trạng thai lưu như trước đây.

Thụ tinh trong ống nghiệm không phải biện pháp duy nhất điều trị vô sinh, hiếm muộn

GS TS Nguyễn Viết Tiến cho biết, bệnh nhân K.T kể trên chỉ là một ví dụ trong nhiều bệnh nhân đang rất gian nan trong hành trình chữa trị vô sinh, hiếm muộn. Theo GS.TS Nguyễn Viết Tiến, muốn điều trị vô sinh cho bệnh nhân có hiệu quả, điều đầu tiên phải tìm nguyên nhân gây vô sinh ở mỗi bệnh nhân.

Vô sinh do rất nhiều nguyên nhân, vô sinh do cả vợ, cả chồng. Hiện nay, vô sinh do nữ chiếm khoảng hơn 40%, vô sinh do nam giới chiếm khoảng hơn 40%, còn 20% còn lại vô sinh do cả nam và nữ. Tùy thuộc vào từng nguyên nhân mà chúng ta điều trị cho người bệnh.

Theo GS.TS Nguyễn Viết Tiến, để điều trị vô sinh hiếm muộn có nhiều biện pháp. Rất nhiều bệnh nhân làm thụ tinh trong ống nghiệm không thành công nhưng sau đó mổ nội soi thì bệnh nhân lại có thai tự nhiên.

dan-tri-de-vo-sinh-hiem-muon-dieu-tri-co-hieu-qua-2-docx-1594171236171-1594179394962684562491
GS.TS Nguyễn Viết Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, chuyên gia sản khoa hàng đầu Việt Nam

GS.TS Nguyễn Viết Tiến chia sẻ: “Nhiều cặp vợ chồng do quá nóng lòng có con, sau 6 tháng hay 1 năm chưa thấy có con đã vội đi làm thụ tinh trong ống nghiệm mà không cần tìm hiểu xem nguyên nhân vô sinh chính do đâu. Đó là điều sai lầm”.

“Nếu vô sinh do: Viêm nhiễm, tắc ống dẫn trứng, bất thường cơ quan sinh sản (có vách ngăn tử cung)… thì cần phải phẫu thuật để khắc phục nguyên nhân này thì bệnh nhân sẽ có con tự nhiên”, GS. Tiến cho hay.

Nói về những rủi ro khi điều trị vô sinh, hiếm muộn, GS.TS Nguyễn Viết Tiến cho biết: Thụ tinh trong ống nghiệm hay phẫu thuật đều có những tai biến rủi ro dẫn tới tử vong. Khi thụ tinh trong ống nghiệm, sẽ thực hiện kích buồng trứng. Nếu quá kích buồng trứng, bệnh nhân bị chảy máu, rối loạn đông máu, tổn thương các mạch máu lớn, có thể dẫn tới tử vong. Ngoài ra, sau mỗi lần thụ tinh trong ống nghiệm không thành công, buồng trứng sẽ bị tổn thương vì bị mất đi một số lượng noãn và hao tổn chức năng nội tiết.

Tuy nhiên, nếu chúng ta xem nhẹ thụ tinh trong ống nghiệm, không làm thụ tinh trong ống nghiệm trong những trường hợp cần thiết thì đó cũng là sai lầm. Ví dụ trong những trường hợp: Tắc hai vòi trứng hoàn toàn hoặc tinh trùng quá yếu, thì cần làm thụ tinh trong ống nghiệm. Như vậy, trường hợp nào cần làm thụ tinh trong ống nghiệm thì mới nên làm.

Các biện pháp phẫu thuật trong điều trị vô sinh, hiếm muộn cũng gây những tai biến cho bệnh nhân. Trước đây, có một số trường hợp bệnh nhân bị tắc vòi trứng, do lạm dụng bơm hơi, bơm thuốc, khiến ống dẫn trứng bị giãn khiến vòi trứng bị giãn và hỏng.

GS.TS Nguyễn Viết Tiến cũng bày tỏ quan điểm: “Với điều trị vô sinh không vội vã được”. Về phía người bệnh, nên nghe bác sĩ tư vấn và không nên áp đặt cho bác sĩ. Nhiều người bệnh đọc các kiến thức trên mạng và yêu cầu áp sĩ áp dụng theo. “Tôi cũng không phê phán nhiều các kiến thức trên mạng vì có những kiến thức đúng nhưng có những kiến thức chưa đúng, chưa phù hợp về mặt khoa học. Tuy nhiên, kể cả các kiến thức đúng đi chăng nữa thì chưa chắc khi áp dụng đã phù hợp với bệnh nhân”, GS.TS Nguyễn Viết Tiến chia sẻ.

Theo PV – phunuvietnam.vn

Bài viết cộng tác độc giả vui lòng gửi về email bientap@pnnn.vn

0 BÌNH LUẬN

BÌNH LUẬN